Thưa các đồng chí
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) đã bàn và thống nhất ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”. Đây là một nghị quyết rất quan trọng, được toàn Đảng,
toàn dân đặc biệt quan tâm; quan tâm từ trong quá trình diễn ra hội nghị đến
khi kết thúc hội nghị. Ngay sau khi ban hành, nghị quyết đã được tuyệt đại đa
số cán bộ, đảng viên và nhân dân đón nhận với một tình cảm hồ hởi, vui mừng,
đồng tình, nhất trí cao, cho rằng nghị quyết đã lựa chọn đúng vấn đề, đánh giá
đúng thực trạng và đề ra đúng các giải pháp để tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân. Đã có hàng
trăm bài báo, hàng trăm bức thư, hàng nghìn ý kiến tâm huyết gửi về Trung ương
bày tỏ tình cảm và sự tâm đắc, phấn khởi, kỳ vọng của mình. Tuy nhiên, dư luận
cũng đang chờ đợi và có phần băn khoăn, lo rằng liệu nghị quyết lần này có được
tổ chức thực hiện hiệu quả không, hay lại rơi vào tình trạng “không đạt yêu
cầu” như nhiều lần trước. Tâm trạng đó là chính đáng và cũng là điều day dứt,
trăn trở chung của tất cả chúng ta.
Ý thức sâu sắc được vấn đề này, ngay tại phiên bế
mạc Hội nghị Trung ương 4, Ban Chấp hành Trung ương đã yêu cầu phải lãnh đạo,
chỉ đạo thật tốt việc tổ chức thực hiện, coi đây là vấn đề mấu chốt, có ý nghĩa
quyết định để đưa nghị quyết vào cuộc sống. Sau một thời gian ngắn tích cực và
khẩn trương chuẩn bị, hôm nay, Bộ Chính trị triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc
để phổ biến, quán triệt nội dung của Nghị quyết Trung ương, Chỉ thị và Kế hoạch
triển khai của Bộ Chính trị. Sự có mặt đông đủ của tất cả các đồng chí trong Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và sự tham
gia của toàn thể cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành Trung ương và các
tỉnh, thành trong cả nước đã nói lên tầm quan trọng đặc biệt của hội nghị này
và thể hiện tinh thần nghiêm túc, quyết tâm cao của Đảng ta ngay từ khâu mở đầu
trong toàn bộ kế hoạch triển khai thực hiện nghị quyết. Có lẽ đây cũng là hội
nghị lớn nhất về phổ biến một nghị quyết chuyên đề của Trung ương từ trước đến nay.
Mục đích của hội nghị này là thông qua việc giới
thiệu, phổ biến các nội dung nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, giúp các đồng chí
lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp nhận thức đầy đủ, sâu sắc mục đích, ý
nghĩa, nội dung của nghị quyết, nắm vững những kiến thức cần thiết, những tư
tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó, tạo sự thống nhất cao
về ý chí, quyết tâm, thấy đầy đủ trách nhiệm của mình để gương mẫu, tự giác
thực hiện và chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết có hiệu quả trên mỗi cương
vị công tác tại địa bàn, lĩnh vực thuộc trách nhiệm lãnh đạo của mình. Ban Tổ
chức hội nghị đã phổ biến, báo cáo với các đồng chí chương trình, nội dung,
cách thức tiến hành hội nghị. Tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm là, hội nghị của chúng
ta có ý nghĩa cực kỳ quan trọng . Các đồng chí cần nêu cao ý thức trách nhiệm
trước Đảng, trước nhân dân và đất nước, tập trung cao độ cho việc học tập,
nghiên cứu, thảo luận, để thu được kết quả tốt. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã có quyết tâm rất lớn và thống nhất rất cao. Mong toàn
thể các đồng chí cũng thống nhất rất cao và quyết tâm rất lớn, ngay trong việc
học tập nghị quyết này.
Vừa qua, các đồng chí đã được nghe thông báo
nhanh kết quả và các nội dung chính của Hội nghị Trung ương 4 qua các phương
tiện thông tin đại chúng hoặc tại các hội nghị phổ biến, quán triệt nghị quyết
do cấp ủy tổ chức. Nghị quyết của Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị viết
rất ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, các đồng chí cần nghiên cứu trực tiếp. Sau đây,
để giúp các đồng chí hiểu sâu hơn, tôi xin nói thêm một số vấn đề, chủ yếu là
cung cấp thông tin hoặc nói rõ hơn một số nội dung được đề cập trong Nghị quyết
của Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị.
Tập trung vào 4 phần lớn: (1) Vì sao lúc này
Trung ương phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng. (2) Mục đích, yêu cầu,
quá trình chuẩn bị và phạm vi của nghị quyết. (3) Những nội dung cơ bản của
Nghị quyết Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị. (4) Một số vấn đề cần lưu ý
trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện.
I- VÌ SAO LÚC NÀY TRUNG ƯƠNG PHẢI BÀN VÀ RA
NGHỊ QUYẾT VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
Từ trước đến nay, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến
công tác xây dựng Đảng. Đã có không ít các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về xây dựng Đảng. Các cương lĩnh, văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc đều có đề cập đến công tác xây dựng Đảng; có đại hội có
báo cáo riêng về xây dựng Đảng. Chỉ tính từ Đại hội VI đến nay, Ban Chấp hành
Trung ương đã ban hành 8 nghị quyết, Bộ Chính trị ban hành 6 nghị quyết chuyên
đề về xây dựng Đảng. Ban Bí thư khoá VII đã chỉ đạo tiến hành tổng kết 20 năm
xây dựng Đảng thời kỳ 1975-1995; Ban Bí thư khóa IX chỉ đạo tổng kết một số vấn
đề lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới (1986-2006), trong đó có phần về xây
dựng Đảng.
Đã có nhiều nghị quyết về xây dựng Đảng như vậy,
tại sao lần này Trung ương lại phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng nữa?
Theo tôi có 4 lý do:
Một là, vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác
xây dựng Đảng luôn luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách
mạng nước ta. Đây là bài học lớn, là kết
luận sâu sắc được rút ra qua suốt quá trình hơn 80 năm hoạt động của Đảng ta,
đồng thời cũng là lý luận khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đảng,
nhiều nước trên thế giới. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta
đã khẳng định: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Trước kia đã như vậy, hiện nay đang như vậy, và sau này cũng sẽ vẫn như vậy.
Các đảng cộng sản và công nhân quốc tế đã coi sự lãnh đạo của đảng cộng sản là
vấn đề có tính nguyên tắc, có tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bác
Hồ cũng đã từng nói, Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm
lái có vững thì thuyền mới chạy. Sự tan rã của Liên Xô là do nhiều nguyên nhân,
nhưng có một nguyên nhân rất cơ bản chính là vì Đảng Cộng sản lúc đó đã suy
thoái, biến chất do quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi; một số người
lãnh đạo cấp cao của Đảng rơi vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội hữu khuynh, mắc sai
lầm về đường lối, thậm chí phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đảng đông
(21 triệu đảng viên) nhưng không mạnh, mất sức chiến đấu nên khi tình hình xấu
xảy ra đã tan rã. Có thể nói, đây là bài học vô cùng sâu sắc và đắt giá mà mỗi
cán bộ, đảng viên chúng ta cần phải thấm thía, luôn luôn khắc sâu, ghi nhớ,
đừng để đi vào “vết xe đổ” đau xót đó. Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cải cách,
mở cửa cũng luôn luôn khẳng định dứt khoát phải kiên trì vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, và trong những lần trao đổi với chúng ta, bạn thường nhấn mạnh
không để bị “tây hóa”, “tha hóa”, “thoái hóa”. Đảng Cộng sản Cuba đang đổi
mới từng bước theo đường lối “cập nhật hóa mô hình phát triển kinh tế-xã hội”,
cũng kiên quyết khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận
đa nguyên, đa đảng. Mới đây, Đảng Cộng sản Cuba vừa tổ chức Hội nghị cán bộ
toàn quốc về xây dựng Đảng. Trong thời đại ngày nay có lẽ không có nước nào
trên thế giới lại không có đảng (dù một đảng hay nhiều đảng) hoặc một tổ chức
chính trị tương tự như đảng lãnh đạo.
Thực tế ở nước ta cho thấy, càng đi vào đổi mới,
đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập lại càng cần phải có sự
lãnh đạo của Đảng và coi trọng công tác xây dựng Đảng; đây là nhân tố bảo đảm
thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa
xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, nền độc lập tự chủ của tổ quốc
ta. Vào thời điểm này, chúng ta càng cần phải khẳng định mạnh mẽ sự lãnh đạo
của Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng và ý nghĩa quan trọng của công tác xây dựng
Đảng. Vừa qua, cũng có nơi này, nơi khác, lúc này, lúc khác chưa phải đã nhận
thức một cách sâu sắc vấn đề này. Hoặc là chỉ nặng về công tác chuyên môn, chưa
quan tâm đầy đủ đến công tác xây dựng Đảng; hoặc là có ý nào đó xem nhẹ vai trò
lãnh đạo của Đảng, coi nhẹ công tác Đảng. Đây đó có người cho rằng phát triển
kinh tế thị trường, nhiều thành phần, mở cửa, hội nhập quốc tế, liên doanh,
liên kết với nước ngoài thì cần gì phải có sự lãnh đạo của Đảng. Thậm chí có ý
kiến cho rằng hình như sự lãnh đạo của tổ chức đảng chỉ gây rắc rối thêm, ngáng
trở sự phát triển của kinh tế(?).
Hai là, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nước ta
hiện nay rất to lớn, nặng nề, khó khăn, đòi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo lên
cao hơn nữa, nâng sức chiến đấu mạnh hơn nữa. Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng vừa thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 nhằm mục tiêu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
và đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đây thật sự là một cuộc vận động cách mạng toàn diện, sâu sắc và
cao cả.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, chúng ta
phải tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây
dựng văn hóa, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã
hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế... Phải xử lý, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn giữa đổi
mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa độc lập tự chủ
và hội nhập quốc tế; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa... So với trước đây, chưa bao giờ đất nước ta lại triển khai xây
dựng, phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế với quy mô rộng lớn như hiện nay.
Có rất nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải được giải đáp và giải quyết, cả về
lý luận và thực tiễn; có những vấn đề tưởng chừng như mâu thuẫn, nghịch lý.
Tình hình thế giới lại đang có những diễn biến
hết sức mau lẹ, phức tạp, khó dự báo, do có sự tranh chấp giữa các nước lớn,
giữa các lực lượng; sự mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các quốc gia, các giai
cấp, các dân tộc, các khu vực; sự biến đổi khí hậu toàn cầu; sự phát triển như
vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ... Cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội với các thế lực đế quốc cực đoan, hiếu chiến đang
diễn ra dưới nhiều hình thức, sắc thái mới, rất quyết liệt. Những mâu thuẫn vốn
có của chủ nghĩa tư bản chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên
sâu sắc. Cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế của hệ thống tư bản chủ
nghĩa những năm 2008 - 2009 chưa giải quyết xong thì lại đến cuộc khủng hoảng
nợ công ở Mỹ và nhiều nước Tây Âu lan tràn từ Ailen, Hy Lạp đến Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Italia... Phong trào “Chiếm phố Uôn” từ Niu Ioóc đã lan khắp các thành
phố ở Mỹ, sang cả nhiều nước Tây Âu, Nhật Bản... Cuộc khủng hoảng nợ công này
được coi là biểu hiện của “lỗi hệ thống”, phản ánh sự bế tắc của chủ nghĩa tư
bản, có thể dẫn đến cuộc suy thoái mới của chủ nghĩa tư bản, theo như nhận định
và dự báo của nhiều chuyên gia quốc tế. Tình hình biển Đông, tình hình khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương cũng đang có những diễn biến phức tạp mới...
Trong tình hình ấy, chúng ta chủ trương thực hiện
một đường lối đối ngoại độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương
hóa, đa dạng hóa, hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế; phải xử lý các
mối quan hệ sao cho vừa kiên định về nguyên tắc, vừa mềm dẻo, khôn khéo về
phương pháp, sách lược; vừa giữ vững độc lập chủ quyền của quốc gia, bảo vệ
được chế độ chính trị, thành quả cách mạng, vừa tạo được môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước, tránh được sơ hở, tránh bị
mắc bẫy, thêm được bạn, bớt được thù, quả thật là không đơn giản. Trong quá trình
chuyển đổi phương thức quản lý kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, có nhiều
việc chúng ta phải vừa làm, vừa học, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm và chịu tác
động mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập. Có không ít vấn đề tác
động trực tiếp đến nước ta, vào cả tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của cán bộ,
đảng viên, nhân dân ta.
Ba là, bản thân Đảng, bên cạnh mặt tích cực,
bản chất và truyền thống tốt đẹp được phát huy cũng đang đứng trước nhiều yêu
cầu mới và có những hiện tượng tiêu cực, phức tạp mới. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có
quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, cán bộ... đất nước lại phát
triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về bản
chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế tác
động vào Đảng. Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu-nghèo, có những
người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu
có nghĩ giống người nghèo không? Nhà triết học cổ điển Đức L.Foiơ Băc đã
từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh. Mai
kia Đảng này sẽ là đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không? Thực tế đã có bộ phận
suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Có người công
khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt đảng, thậm chí có người “sám hối”, “trở cờ”; tình trạng tham
nhũng, quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Đảng bị
vi phạm. Đây là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn nhất đối với một
đảng cầm quyền, như Lênin và Bác Hồ đã từng cảnh báo. Chúng ta đã tiến hành
công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều
biện pháp, nhiều cuộc vận động, làm cho Đảng ta ngày càng tiến bộ, trưởng
thành; song vẫn còn nhiều hạn chế. Các mặt khuyết điểm, yếu kém chưa khắc phục
được bao nhiêu, có mặt còn phức tạp thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân, tác động tiêu cực vào sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo
của Đảng. Đây thực sự là những cảnh báo không thể xem thường.
Bốn là, sự chống phá điên cuồng và quyết liệt
của các thế lực thù địch, phản động. Âm mưu
cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xoá bỏ
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực thù địch đã áp dụng lần
lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến dịch này đến chiến dịch
khác, rất kiên trì, kiên quyết, xảo quyệt. “Diễn biến hòa bình” là một chiến
lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, là
“thủ đoạn hòa bình để giành thắng lợi”. Nhiều chuyên gia và chính khách phương
Tây còn gọi đây là phương pháp “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”,
“cách mạng hòa bình” và gần đây là “cách mạng nhung”, “cách mạng màu”, “cách
mạng đường phố”... Trong chiến lược này, hoạt động tư tưởng-văn hóa được họ coi
là “mũi đột phá”, là “cây cầu dẫn vào trận địa”, là lĩnh vực hàng đầu làm tan
rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần
dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa. Chính các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc đã tổng kết: “Có những việc
100 máy bay chiến đấu không thực hiện nổi, nhưng chỉ cần 10 sứ giả lại có thể
hoàn thành”; “một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước”. Ngày
nay “làn sóng điện đang thay thế thanh gươm; cây bút là phương tiện đi vào trái
tim khối óc con người”; “một đôla chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5
đôla chi cho quốc phòng”; “kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn
giáo là bốn đòn đột phá khẩu, bốn mũi xung kích để chọc thủng mặt trận tư tưởng
chính trị”.
Thời gian gần đây, các làn sóng chống đối ta về
mặt tư tưởng chính trị lại rộ lên, có lúc dồn dập. Có thể là do tình hình thế
giới và khu vực có những diễn biến mới; tình hình kinh tế-xã hội nước ta bên
cạnh thành tựu lớn cũng xuất hiện những khó khăn và thách thức mới, các tệ nạn
xã hội như tham nhũng, hối lộ, ma túy, mại dâm... tiếp tục gia tăng, sự phân
hóa giàu - nghèo phát triển. Tình trạng quan liêu, mất dân chủ làm dân bất bình
dẫn đến khiếu kiện đông người ở một số nơi phức tạp. Các thế lực thù địch và
các phần tử cơ hội chắc mẩm đây là cơ hội để họ dấn tới tác động, làm chuyển
hóa tình hình, thay đổi đường lối ở nước ta, cho nên họ hoạt động rất điên
cuồng với nhiều thủ đoạn và sách lược mới; vừa dùng các lực lượng, phương tiện
từ bên ngoài, vừa tận dụng phát triển lực lượng ở trong nước ta để tạo ra sự
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chống đối từ nội bộ Đảng ta, xã hội ta, hòng
phá ta từ bên trong phá ra, làm cho “cộng sản tự diệt cộng sản”, “cộng sản con
diệt cộng sản bố”. Họ đang cố tìm ra và dựng lên những “ngọn cờ” để chống ta.
Một số người cơ hội chính trị, bất mãn cũng lợi dụng các diễn đàn, các mối quan
hệ để truyền bá những quan điểm sai trái của mình, liên tiếp viết đơn thư, tài
liệu vu cáo, đả kích chế độ ta, tác động vào nhân dân, nhất là thanh niên, sinh
viên, văn nghệ sĩ, trí thức...
Nội dung các quan điểm của họ vẫn là những luận
điệu lâu nay các nhà tư tưởng chống cộng đã từng nói và đã từng nhiều lần bị
chúng ta phê phán, bác bỏ. Đại thể vẫn là phủ nhận thành tựu của cách mạng;
thổi phồng khuyết điểm, tồn tại của chúng ta, bôi đen hiện thực, gieo rắc hoài
nghi, phá rã niềm tin của nhân dân và cán bộ, quy kết là do đường lối sai, sự
lãnh đạo, quản lý yếu kém của Đảng và Nhà nước. Phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định con đường xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội
chủ nghĩa; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán, đổ lỗi cho Đảng, đòi đa
nguyên, đa đảng. Kích động chia rẽ nội bộ, tung ra những luận điệu trong Đảng,
trong Trung ương, Bộ Chính trị có phe này, phái kia; bịa đặt, xuyên tạc lịch
sử; vu cáo, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, kể
cả Bác Hồ, tìm mọi cách “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”... Những luận điệu của
các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị nói trên tuy
không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc
hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội
bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Trong bối cảnh tình hình nêu trên, nếu Đảng ta
không giữ được bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị,
tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo
đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không
thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy mà Đảng ta
luôn luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là
nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Và
đó cũng chính là những lý do giải thích vì sao lần này Ban Chấp hành Trung ương
phải tiếp tục bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng.
II- MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU, QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ VÀ
PHẠM VI CỦA NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4
1- Mục đích, yêu cầu
Đại hội XI của Đảng đã xác định chủ đề và cũng là
tư tưởng chỉ đạo cho những năm tới là phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng và đề ra yêu cầu phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch,
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo...
tập trung vào 8 nhiệm vụ cơ bản có tính hệ thống, toàn diện. Tuy nhiên, đây là
nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, phải tiến hành thường xuyên, lâu dài. Trước
mắt, cần lựa chọn một số vấn đề cấp bách nhất cần tập trung làm ngay để tạo ra
được những chuyển biến cụ thể, rõ rệt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn
và góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hội nghị Trung
ương 4 bàn và ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
chính là để đáp ứng yêu cầu đó, nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
phần nói về xây dựng Đảng, thực hiện chương trình toàn khoá của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI.
2- Quá trình và cách thức chuẩn bị Hội nghị
Trung ương 4
Nhận thức rõ vị trí và ý nghĩa quan trọng của Hội
nghị Trung ương lần này, Bộ Chính trị đã tập trung chỉ đạo công việc chuẩn bị
một cách rất khẩn trương, nghiêm túc và có bước đổi mới với yêu cầu phải rất cụ
thể, thiết thực, khả thi, làm sao chọn đúng vấn đề, xác định đúng trọng tâm, đề
ra được những biện pháp tích cực mang tính đột phá để tạo được chuyển biến rõ
rệt trong thực tế. Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo chuẩn bị xây dựng đề
án, gồm một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương và đại diện lãnh đạo các ban đảng ở Trung ương do đồng chí Thường
trực Ban Bí thư làm Trưởng ban. Ban Chỉ đạo đã thành lập Tổ Biên tập khẩn
trương tổ chức nghiên cứu, xây dựng đề án. Dự thảo đề án đã được gửi lấy ý kiến
đóng góp của các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh ủy, thành ủy,
đảng ủy trực thuộc Trung ương và một số cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung
ương. Đã tổ chức 4 hội nghị lấy ý kiến của đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, bí
thư, phó bí thư tỉnh ủy, thành ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương. Thường trực Ban Chỉ đạo trực tiếp làm việc, nghe ý kiến
đóng góp của nhiều đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao, lão thành cách mạng và
nhiều đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung
ương Đảng có kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng. Bộ Chính trị đã dành 2
phiên họp để nghe Ban Chỉ đạo báo cáo và thảo luận những nội dung quan trọng
của đề án để trình Trung ương.
Tại Hội nghị Trung ương 4, các đồng chí Ủy viên
Trung ương và các đồng chí tham dự hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm
rất cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến
quan trọng vào các đề án, báo cáo của Bộ Chính trị. Đã có 202 lượt ý kiến phát
biểu ở tổ và hội trường; nhiều đồng chí gửi ý kiến bằng văn bản hoặc sửa trực tiếp
vào dự thảo nghị quyết. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn
đề còn ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua nội dung nghị
quyết và ngày 16.1.2012, nghị quyết đã được ban hành. Tinh thần chung và sự
thống nhất rất cao của Trung ương là quyết tâm tạo ra những bước chuyển biến rõ
rệt, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng vì sự nghiệp của đất
nước, của dân tộc và của Đảng. Như vậy, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4
thực sự là sản phẩm của trí tuệ tập thể.
3- Về phạm vi của nghị quyết
Lần này, Trung ương không bàn toàn diện mà chỉ
chọn một số vấn đề cấp bách nhất về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay để
tập trung chỉ đạo thực hiện với mong muốn khắc phục những cách làm dàn trải
trước đây, tạo ra bước chuyển biến cụ thể, thiết thực trong thực tế. Đó là 3
vấn đề: (1) Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp. (2) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. (3) Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người
đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn
vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong 3 vấn đề trên, khi thảo luận có ý kiến hỏi
vấn đề nào là trọng tâm, là quan trọng nhất, cấp bách nhất? Có ý kiến cho rằng,
bây giờ vấn đề tư tưởng chính trị là quan trọng nhất, vì nó liên quan đến sinh
mệnh chính trị của Đảng, đến Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng - tức là vấn
đề rất cốt tử. Ý kiến khác lại nói vấn đề ấy là ở trên Trung ương, ở tầm cao,
tầm chiến lược, chứ còn ở địa phương, ở cơ sở thì điều nhức nhối là vấn đề suy
thoái đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, vấn đề này quần chúng dễ nhìn
thấy. Quần chúng ở cơ sở không mất lòng tin vào Đảng, vào đường lối, mà mất
lòng tin vào con người cán bộ cụ thể ở cơ sở, mất lòng tin qua một số hiện
tượng như tham nhũng, tiêu cực, suy thoái phẩm chất đạo đức, cho nên phải coi
vấn đề đạo đức, lối sống là vấn đề cấp bách nhất. Lại có ý kiến cho rằng, bây
giờ nguyên nhân của mọi nguyên nhân vẫn là vấn đề cán bộ; con người là quyết
định hết thảy. Chúng ta nói mãi mà tổ chức cứ phình ra, bộ máy thì chồng chéo,
biên chế thì tăng lên, lương thì bất hợp lý cho nên phải gỡ từ công tác tổ
chức, cán bộ. Cũng có ý kiến cho rằng, hiện nay thẩm quyền, trách nhiệm giữa
tập thể và cá nhân xác định không rõ, nên nhiều vụ việc không xử lý được vì
không ai chịu trách nhiệm; có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, thành
tích thì nhận của cá nhân, còn khuyết điểm thì đổ cho tập thể; vì vậy vấn đề
phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân là vấn đề cấp
bách nhất. Mỗi ý kiến đều có khía cạnh hợp lý, đều quan trọng và cấp bách cả,
không thể coi nhẹ vấn đề nào. Tuy nhiên, đứng trên tổng thể mà xét, hiện nay
cái làm cho quần chúng oán thán nhất, gây mất lòng tin nhất, làm xói mòn bản
chất Đảng đó chính là sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này thật là nghiêm trọng.
Cho nên, 3 vấn đề đã nêu đều quan trọng và có liên quan mật thiết với nhau,
nhưng Trung ương thống nhất xác định vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và
cấp bách nhất. Đây chính là khâu đột phá trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng
hiện nay, là “mắt xích” chủ yếu mà chúng ta cần nắm lấy, song trong chỉ đạo
không được coi nhẹ 2 vấn đề kia.
III- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT
Như trên đã nói, lần này Trung ương đổi mới cách
ra nghị quyết. Bản nghị quyết được viết ngắn gọn, nhưng chứa đựng nhiều nội
dung cơ bản và quan trọng, có nhiều điểm mới, chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề
cấp bách đã được xác định. Trên cơ sở đó, đi thẳng vào đánh giá tình hình, phân
tích nguyên nhân, chỉ rõ mục tiêu, phương châm, các giải pháp tiến hành và cách
tổ chức thực hiện. Đề nghị các đồng chí đọc, nghiên cứu trực tiếp. Tôi chỉ nhấn
mạnh thêm một số điểm:
1- Về đánh giá tình hình và nguyên nhân
Việc đánh giá tình hình thường rất khó, vì nó tuỳ
thuộc vào chỗ đứng, góc nhìn, cách nhìn, lượng thông tin có được của mỗi người.
Thực tế khi thảo luận ở Hội nghị Trung ương và xin ý kiến đóng góp của một số
tập thể và cá nhân, có một số ý kiến cho rằng, đề án chưa thể hiện tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, còn né tránh, chưa thấy hết mức nghiêm trọng của những yếu
kém, khuyết điểm, tình hình nghiêm trọng hơn nhiều. Một số ý kiến khác lại cho
rằng, đề án nêu phần khuyết điểm quá nặng nề, đen tối, tình hình Đảng không đến
mức như vậy; nếu xấu như vậy thì tại sao những năm qua chúng ta tiến hành sự
nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn mà cả thế giới thừa nhận, vị thế
nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao? Nói thế nào cho khoa học,
đúng mức, không nên tự bôi nhọ mình, để kẻ xấu lợi dụng. Nó đang muốn phá vỡ
niềm tin, bôi xấu mình thì mình lại tự làm mất uy tín của mình, như thế thì có
khác nào tiếp thêm đạn cho địch bắn.
Trung ương yêu cầu cần phải có phương pháp nhìn
nhận, đánh giá một cách khách quan, biện chứng, khoa học, nhìn thẳng vào sự
thật, bình tĩnh, không phiến diện, không tô hồng và cũng không bôi đen; chỉ ra
cả mặt thành tựu và yếu kém; phân tích toàn diện cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan. Thực tế có đến đâu nói đến đấy, không nên thổi phồng,
cường điệu một mặt nào.
Với những nguyên tắc phương pháp luận đó, Trung
ương đã chỉ rõ, trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt
qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân
chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã lãnh
đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng... Trong thời kỳ
đổi mới, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực;
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương
thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được
giữ vững; niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ,
đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi mới
là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn
của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hầu hết ý kiến đề nghị là phải khẳng định mạnh mẽ
thành tựu, ưu điểm, bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng của Đảng ta. Phải
khẳng định phần lớn cán bộ, đảng viên ta rất tốt; nếu không tốt thì làm gì có
thành tựu như bây giờ. Thực tế lịch sử không thể phủ nhận được là, hơn 80 năm
qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức
mạnh và uy tín của mình chính là bằng bản lĩnh, nghị lực; trí tuệ, lý luận tiên
phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho
dân tộc; bằng sự hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ,
đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu
thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Tổ quốc
ta, dân tộc ta chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay, chưa bao giờ có được vị
thế trên trường quốc tế như hiện nay.
Tuy nhiên, Trung ương cũng thẳng thắn vạch ra
những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trên cả 3 vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng,
chỉ ra tính chất, phạm vi, xu thế và hậu quả của những yếu kém, khuyết điểm đó.
Phải nói, về tính chất, là nghiêm trọng, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được
khắc phục. Về phạm vi, là tương đối phổ biến, có ở các cấp, các ngành (“một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh
đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống”). Về xu hướng, là diễn biến phức tạp, chưa ngăn chặn, đẩy lùi
được. Về hậu quả, là làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; làm suy
giảm vị trí, vai trò, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng; làm tổn hại
tới uy tín, thanh danh của Đảng, Nhà nước. Những khuyết điểm đó nếu không được
sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của
chế độ ta.
Trên vấn đề thứ nhất, Trung ương đã nghiêm khắc
chỉ ra những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và suy thoái về
đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị thể hiện ở chỗ: Phai nhạt
lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, dao động, thiếu
niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu
tranh, phụ hoạ theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; không còn ý thức
hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không
thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng.
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ:
Sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè
phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó
khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc... Trong những biểu hiện đó,
cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất
là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm... ở một bộ phận đảng
viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước,
đương chức, hoặc thôi chức.
Trên vấn đề thứ hai, Trung ương đã thẳng thắn chỉ
ra một số khuyết điểm trong công tác tổ chức, cán bộ. Đội ngũ cán bộ cấp trung
ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản.
Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa xây dựng
được quy hoạch ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và
thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh
giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc,
bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo,
sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.
Trên vấn đề thứ ba, Trung ương chỉ ra tình trạng
không rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp
uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị và mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, chính
quyền, cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”
trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách
nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai
chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách
nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết,
dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho các việc làm tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng
quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Về nguyên nhân của yếu kém, khuyết điểm: Trung
ương xem xét khá toàn diện, chỉ ra cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Các nguyên nhân khách quan và
chủ quan tác động lẫn nhau, xuyên thấm vào nhau rất phức tạp. Đáng chú ý là:
+ Nguyên nhân về sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện,
giảm sút ý chí chiến đấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sa vào
chủ nghĩa cá nhân, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại
khó, ngại khổ, ngại va chạm, bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không
nghiêm; cán bộ lãnh đạo, quản lý không gương mẫu.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng,
không ít nơi có tình trạng dân chủ hình thức; tập thể là “bình phong” để hợp
thức hoá ý kiến của thủ trưởng, mà thực chất là gia trưởng, độc đoán. Nguyên
tắc tự phê bình và phê bình thực hiện rất kém, thiếu thẳng thắn, trung thực;
xuê xoa, nể nang. Trong hội nghị thì nhất trí, nhưng ra ngoài nói khác hoặc
không thực hiện. Khi đương chức thì không nói hoặc nói kiểu này, khi nghỉ chức
vụ hoặc về hưu lại nói kiểu khác. Khi còn phụ trách thì không được góp ý kiến
nhưng khi nghỉ hưu, hoặc chuyển công tác thì có rất nhiều đơn, thư tố cáo. Mặt
khác, lại có tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật; kỷ cương không
nghiêm. Có tình trạng vi phạm nguyên tắc sinh hoạt đảng, tán phát “tờ rơi”, thư
nặc danh, đưa tin đồn để nói xấu, đả kích, làm mất uy tín nhau, gây nghi ngờ,
chia rẽ nội bộ; thậm chí núp đằng sau xúi quần chúng đấu tranh.
+ Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế,
chính sách, pháp luật thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá,
sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ
chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người
vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên ý chí
cách mạng của cán bộ, đảng viên. Công tác nghiên cứu lý luận còn bất cập, lạc
hậu, chưa giải đáp được nhiều vấn đề lý luận - thực tiễn còn vướng mắc hoặc ý kiến
khác nhau. Tình trạng lười học tập hoặc học qua loa, đại khái, học đối phó, học
cốt để lấy bằng còn xảy ra khá phổ biến.
+ Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương,
kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những
vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc...
Từ sự phân tích trên đây, chúng ta có thể trả lời
được câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại sao từ trước đến nay, Đảng đã có
nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng, đã chỉ đạo nhiều cuộc vận động đổi
mới, chỉnh đốn Đảng nhưng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, chưa ngăn
chặn, đẩy lùi được. Đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta;
do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do
sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng
viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Suy đến
cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân. Bác Hồ đã nhiều lần nhấn mạnh
rằng, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác, là giặc nội xâm, nó không mang gươm,
mang súng nhưng vô cùng nguy hiểm, gian giảo, xảo quyệt; nó kéo người ta xuống
dốc không phanh. Mọi thứ xấu xa, hư hỏng đều sinh ra từ căn bệnh này. Nếu không
đánh bại, không quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì Đảng ta không thể trong sạch,
vững mạnh được, không thể là một đảng cách mạng chân chính hết lòng vì nước, vì
dân được.
2- Về các nhiệm vụ và giải pháp
Trên cơ sở xác định 3 nhiệm vụ trọng tâm và cấp
bách như đã nêu trên, Trung ương chỉ ra các giải pháp bảo đảm đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm, khả thi, kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, tập trung
giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách nhất. Có 4 nhóm giải pháp: (1) Nhóm
giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của
cấp trên. (2) Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt Đảng. (3) Nhóm
giải pháp về cơ chế, chính sách. (4) Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng.
Tinh thần toát lên trong các nhóm giải pháp đó là
cần xác định những việc cần và có thể làm ngay và những việc cần phải có thời
gian chuẩn bị, nhất là về xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, để xây dựng kế
hoạch, lộ trình thực hiện một cách kiên quyết, khả thi, hiệu quả.
Những việc cần và có thể làm ngay là: Từng cán
bộ, đảng viên, trước hết là từng đồng chí Uỷ viên Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính
trị, Ban Bí thư tự giác, gương mẫu tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình, tự
điều chỉnh mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa
mình; cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào
vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư tiến hành kiểm điểm, đánh giá, làm rõ trách nhiệm trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đẩy mạnh chỉ đạo việc
học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống. Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
giải quyết từng vấn đề cấp bách, những việc cần làm ngay, xác định rõ về công
việc, thời gian hoàn thành và người chịu trách nhiệm cụ thể. Nghiêm túc thực
hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm; đẩy mạnh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí; xử lý dứt điểm một số vụ việc mà dư luận quan tâm; cải
tiến, nâng cao chất lượng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
Đối với những việc cần phải có thời gian chuẩn bị
thì khẩn trương nghiên cứu, tổng kết, đề xuất để đi đến quyết định và thực
hiện. Ví dụ: Phải khẩn trương đổi mới công tác tổ chức cán bộ, chế độ sinh hoạt
Đảng; kiểm tra, giám sát việc tự rèn luyện và giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nhất là
chính sách đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ cho phù hợp với điều kiện mới. Xây
dựng quy định cụ thể về việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê
bình và phê bình, đẩy mạnh thực hiện chất vấn trong Đảng. Xây dựng quy định về
thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, sử dụng cán bộ, công
chức, gắn với việc tổ chức thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; có cơ chế
giám sát chặt chẽ của tổ chức đảng và nhân dân, kịp thời thay thế những người
không hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, bảo đảm
cho cán bộ, công chức có mức sống ổn định và có điều kiện để giữ liêm, đồng
thời chống đặc quyền, đặc lợi.
Trong các nhóm giải pháp, có một số điểm mới là:
1- Các giải pháp bảo đảm tính đồng bộ, nhưng cũng
rất tập trung, có lộ trình, kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, hướng vào
giải quyết ba vấn đề bức xúc nhất, với mong muốn tạo được sự chuyển biến cụ
thể, rõ rệt trong thực tế.
2- Nêu cao và rất nhấn mạnh sự tự phê bình và phê
bình, sự gương mẫu của cấp trên, của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trước
hết là cấp trung ương và người đứng đầu các ngành, các cấp, các đơn vị. Nghị
quyết nói rõ là: “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp
uỷ Đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp trung ương, người đứng đầu làm trước và
phải thật sự gương mẫu để cho các cấp noi theo”. “Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí ủy viên ban cán
sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung
ương Đảng, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy các cấp nghiêm túc
kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế”.
3- Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình được
quy định khá chặt chẽ và cụ thể. Nội dung chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề cấp
bách nêu trong nghị quyết lần này gắn với việc thực hiện 19 điều đảng viên
không được làm và việc giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm ở địa phương,
đơn vị, ngành mình. Về cách làm thì từng đồng chí cấp uỷ, từng cán bộ, đảng
viên phải chủ động, tự giác xem lại mình để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết
điểm, không chờ đến khi tổ chức hội nghị kiểm điểm. Trước khi mở hội nghị kiểm
điểm phải chuẩn bị thật kỹ, phải tổ chức lấy ý kiến góp ý của cấp ủy, tổ chức
đảng trực thuộc, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp và
các đồng chí nguyên là cấp ủy viên cùng cấp.
Ủy ban kiểm tra chủ trì phối hợp với ban tổ chức,
ban tuyên giáo, ban dân vận, văn phòng và các cơ quan liên quan kiến nghị với
cấp uỷ (hoặc thường vụ cấp uỷ) nội dung gợi ý kiểm điểm cho tập thể, cá nhân ở
những nơi cần thiết. Sau khi kiểm điểm, báo cáo kết quả với cấp trên và thông
báo với cấp dưới và các cơ quan lấy ý kiến góp ý. Cấp ủy, tổ chức đảng nào, cán
bộ, đảng viên nào kiểm điểm tự phê bình và phê bình không đạt yêu cầu phải kiểm
điểm lại; kiên quyết xử lý kỷ luật những cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên không tự giác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, không tự nhận sai lầm,
khuyết điểm, không khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm đã được nêu ra.
Những trường hợp có vi phạm, tự giác kiểm điểm, tự phê bình nghiêm túc, tích
cực sửa chữa, khắc phục sẽ được xem xét giảm hoặc miễn xử lý kỷ luật. Sau đợt
kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương lần này sẽ duy trì
nghiêm túc nền nếp, chế độ tự phê bình, phê bình hằng năm gắn với kiểm điểm
theo chức trách, nhiệm vụ được giao và lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Định kỳ hằng năm, cấp uỷ,
tổ chức đảng có hình thức thích hợp thông báo kết quả kiểm điểm cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân biết, đóng góp ý kiến. Định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý
xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các
cấp.
Làm tốt việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình
sẽ có căn cứ để hiểu rõ thêm cán bộ, đánh giá, xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ
của cả hệ thống chính trị và chuẩn bị quy hoạch cấp uỷ, các chức danh chủ chốt
các cấp nhiệm kỳ tới. Quy định việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các
chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Đồng thời kiến nghị
với Quốc hội sớm có hướng dẫn để thực hiện quy định việc lấy phiếu tín nhiệm
đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem
xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
4- Xúc tiến việc xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2020; tích cực tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược. Thực hiện bổ
nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý chủ trì cấp trên nói chung phải qua chức vụ lãnh
đạo quản lý chủ trì ở cấp dưới.
5- Xây dựng và thực hiện một số quy chế bảo đảm
phát huy hơn nữa dân chủ trong Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng
viên. Triển khai thực hiện việc chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các
kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp uỷ các cấp. Thực hiện nghiêm việc kê
khai tài sản theo quy định; kê khai phải trung thực và được công khai ở nơi
công tác và nơi cư trú. Xử lý nghiêm người kê khai không đúng. Quy định rõ thẩm
quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng và cơ quan, đơn
vị. Ban hành quy chế để hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý kiến, thể hiện
sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; ban
chấp hành đảng bộ các cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và
từng thành viên ban thường vụ cấp uỷ cấp mình.
Ủy ban kiểm tra các cấp thường xuyên kiểm tra,
giám sát đối với cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý trong việc chấp hành các quy
định của Đảng và Nhà nước; hằng năm có báo cáo kết quả thực hiện của cán bộ
thuộc cấp ủy quản lý trong việc chấp hành quy định của Đảng và Nhà nước về công
tác cán bộ, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức. Xây dựng, bổ sung, hoàn
thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công
tác cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức
vụ, vị trí công tác để trục lợi.
6- Về công tác cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ
theo chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ, làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản
lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ
trương bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện;
gắn với xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực sự có hiệu quả, ngăn
chặn sự lạm quyền, độc đoán. Sơ kết, rút kinh nghiệm để có chủ trương về việc
đại hội Đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu cấp uỷ có số dư. Thực
hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không
phải là người địa phương. Thí điểm việc giao quyền cho bí thư cấp uỷ lựa chọn,
giới thiệu để bầu cử uỷ viên thường vụ cấp uỷ; cấp trưởng có trách nhiệm lựa
chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm chế độ tiến cử, chế độ
tập sự lãnh đạo quản lý; thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự theo hướng
những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương
trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
7- Về cách triển khai thực hiện nghị quyết, lần
này nhấn mạnh vai trò của đồng chí bí thư cấp uỷ. Đồng chí bí thư cấp ủy, tổ
chức Đảng phải trực tiếp nghiên cứu, phổ biến, quán triệt nghị quyết và chỉ đạo
xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện nghị quyết tại địa phương,
cơ quan, đơn vị mình. Phân công một số đồng chí thường trực chỉ đạo. Ở Trung
ương gồm Tổng Bí thư, đồng chí Thường trực Ban Bí thư, các đồng chí Trưởng ban
Tổ chức, Kiểm tra, Tuyên giáo, Dân vận; ở cấp tỉnh, thành phố và các đảng đoàn,
đảng ủy trực thuộc Trung ương cũng làm tương tự như vậy.
IV- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý TRONG QUÁ TRÌNH
CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” là một nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt. Nghị
quyết đã được toàn Đảng, toàn dân rất hoan nghênh và tán thành, coi như đã thổi
một luồng sinh khí mới vào đời sống chính trị của đất nước. Tuy nhiên, tâm lý
chung hiện nay là đang chờ đợi, chờ đợi và hy vọng. Vấn đề quyết định bây giờ
là khâu tổ chức thực hiện nghị quyết. Tinh thần chung của Trung ương là quyết
tâm thực hiện, khó mấy cũng phải thực hiện. Bộ Chính trị đã có chỉ thị và sẽ có
kế hoạch triển khai thực hiện, nêu rõ các yêu cầu, công việc, lộ trình, thời
gian, cách thức và các bước tiến hành cụ thể. Tôi chỉ xin lưu ý một số điểm
chung sau đây:
- Phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích,
ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của nghị quyết, nắm vững những tư tưởng chỉ đạo,
những công việc phải làm, trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết
tâm, thấy đầy đủ trách nhiệm của mình để gương mẫu, tự giác thực hiện và chỉ
đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết trên mỗi cương vị công tác tại địa bàn, lĩnh
vực do mình phụ trách.
- Ngay sau khi kết thúc Hội nghị cán bộ này, Bộ
Chính trị sẽ chỉ đạo tiếp thu ý kiến của các đồng chí, hoàn chỉnh và ban hành
sớm kế hoạch của Bộ Chính trị về việc thực hiện nghị quyết của Trung ương; chỉ
đạo các ban đảng Trung ương tiếp thu ý kiến của hội nghị để sớm ban hành các
văn bản hướng dẫn phù hợp với từng mảng công việc. Căn cứ vào nghị quyết của
Trung ương, chỉ thị và kế hoạch của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo hướng dẫn của các
ban đảng Trung ương và các cơ quan cấp trên, các cấp ủy và tổ chức đảng các
cấp, các ngành phải xây dựng kế hoạch, chương trình học tập, quán triệt và
triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 phù hợp với điều kiện cụ thể của
địa phương, ngành mình. Phải làm rất khẩn trương, nghiêm túc, thiết thực; có sự
phân công trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể, chặt chẽ.
- Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là người đứng đầu, người chủ trì phải tự
giác, gương mẫu làm trước (ngay sau hội nghị này, không phải chờ gì cả) tự kiểm
điểm, soi lại mình, đơn vị mình, gia đình mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì
khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình. Mọi
đảng viên đều phải làm như vậy, chứ không phải chỉ đứng ngoài mà “phán”, hoặc
“chờ xem”, coi như mình vô can.
- Phải thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp một
cách đồng bộ, tổng hợp đồng thời có trọng tâm, trọng điểm; bao gồm cả việc thực
hiện 8 nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, các nghị quyết, chỉ
thị, các quy định khác của Đảng và Nhà nước; kết hợp giữa “xây và chống”,
“chống và xây”. Nêu gương những người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê
phán những việc làm sai trái; đấu tranh mạnh mẽ chống tham nhũng, hư hỏng, tiêu
cực; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, cán bộ; công tác
kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán của các cơ quan chức năng; nâng cao
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng; phát huy vai trò giám sát của nhân
dân, các đoàn thể, của báo chí, công luận.
- Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cần
được chuẩn bị thật chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc, thận
trọng; làm đến đâu chắc đến đó, đạt kết quả cụ thể, thực chất. Hết sức tránh
làm lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục tình trạng xuê xoa, nể
nang, thậm chí biến cuộc họp tự phê bình và phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng
lẫn nhau; cũng như tình trạng lợi dụng dịp này để “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với
những động cơ không trong sáng. Nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê
bình và vu cáo người khác. Kinh nghiệm cho thấy, muốn tự phê bình và phê bình
có kết quả tốt, điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng,
người đứng đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng
đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến
phê bình đúng đắn. Những trường hợp sai phạm nghiêm trọng mà không thành khẩn,
không tự giác, tập thể giúp đỡ mà không tiếp thu thì phải xử lý thích đáng.
Thái độ nể nang, hữu khuynh, “ngậm miệng ăn tiền” hoặc thái độ cực đoan, muốn
lợi dụng phê bình để đả kích người khác, gây rối nội bộ, đều là không đúng. Tự
phê bình và phê bình đòi hỏi mỗi người phải có tinh thần tự giác rất cao, có
tình thương yêu đồng chí thật sự và phải có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân
tình. Đây cũng là dịp để hiểu thêm cán bộ, có cơ sở để đánh giá cán bộ, xem xét
kết hợp chuẩn bị quy hoạch cán bộ cho thời gian tới.
- Phải đặt việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
về xây dựng Đảng trong tổng thể thực hiện các nghị quyết khác của Trung ương,
của Quốc hội, của Chính phủ..., nói rộng ra là trong việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị thường xuyên của cả hệ thống chính trị, bảo đảm thúc đẩy việc hoàn
thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an
ninh - quốc phòng, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại... chứ không phải “đóng
cửa” để chỉnh đốn Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là để làm cho Đảng ta ngày
càng mạnh hơn; cán bộ, đảng viên gương mẫu hơn; tổ chức đảng có sức chiến đấu
cao hơn; đoàn kết nội bộ tốt hơn; gắn bó với nhân dân mật thiết hơn; thúc đẩy
thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt kết quả cao hơn; chứ không phải ngược lại.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc xây dựng
tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, dễ đụng chạm đến danh dự,
lợi ích, quan hệ của con người, đòi hỏi mỗi người phải tự phân tích, mổ xẻ
những ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người
khác. Nếu không thật tự giác, chân thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường
chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy
khuyết điểm, mặt yếu của người khác nhiều hơn mình. Vì vậy, thường rất khó, rất
phức tạp. Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng
và sự tồn vong của chế độ. Đảng ta đã làm, làm nhiều, làm thường xuyên và đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nếu không làm thì không có được những
thành quả như ngày nay. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng,
trước thực trạng một số yếu kém, khuyết điểm, hơn lúc nào hết, Đảng ta càng
phải đặc biệt coi trọng hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Đảng như Đại hội XI và Hội
nghị Trung ương 4 đã chỉ ra, tạo bước chuyển thực sự trong công tác này. Điều
quan trọng có ý nghĩa quyết định là: Tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều
phải có quyết tâm rất lớn, có sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện
quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh
táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc,
kích động, phá hoại. Có những việc không thể chỉ làm một lần là xong. Ngược
lại, phải làm rất kiên trì, bền bỉ; làm thường xuyên, liên tục; làm đi làm lại
nhiều lần như đánh răng, rửa mặt hằng ngày. Có khi giải quyết xong vấn đề này
lại nảy sinh vấn đề khác, làm được việc này lại xuất hiện việc khác. Nếu không
xác định như vậy thì mỗi khi thấy có sự việc tiêu cực trong Đảng dễ mất bình
tĩnh, nảy sinh tư tưởng bi quan, hoài nghi, hoặc mất niềm tin, phủ nhận mọi sự
cố gắng và kết quả chung.
Thưa các đồng chí
Những nội dung trình Hội nghị cán bộ toàn quốc
lần này là những vấn đề rất cơ bản và hệ trọng. Thời gian hội nghị không nhiều,
đề nghị các đồng chí nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung dành thời gian
nghiên cứu, thảo luận, góp ý kiến để tạo thống nhất cao trong việc tổ chức
triển khai thực hiện nghị quyết.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tin tưởng rằng, với
truyền thống và bản chất tốt đẹp của Đảng ta, với quyết tâm chính trị rất cao
của toàn Đảng, lại được nhân dân đồng tình, ủng hộ, nhất định chúng ta sẽ vượt
qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4, tạo bước chuyển
biến mới trong công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững
mạnh.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi xin gửi
đến các đồng chí lời chúc sức khỏe, hạnh phúc, nhiều niềm tin mới, khí thế mới.
Chúc hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.
(Toàn văn phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng).
(*) Đầu đề do Lao Động đặt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét